Nhiên liệu oxit Nhiên liệu hạt nhân

Mục đích của phản ứng phân hạch, chất đốt (điển hình là uranium), thường được dựa trên oxit kim loại; những oxit này được sử dụng thay vì sử dụng chính kim loại đó bởi vì điểm nóng chảy của oxit cao hơn kim loại cũng như nó không thể bị đốt cháy và luôn ở trạng thái oxi hóa.

Độ dẫn nhiệt của Zr và UO2

UOX

Uranium dioxide là một chất bán dẫn màu đen. Nó được sản xuất bởi phản ứng uranyl nitrat với ba-zơ (ammonia) để hình thành chất rắn (amoni uranate). Nó được làm nóng để hình thành U3O8 và sau đó có thể bị biến đổi bởi sự nung nóng argon/hỗn hợp hydro (700 °C) tạo thành UO2. UO2 sau đó trộn với chất kết dính hữu cơ và nén thành hạt nhỏ, những hạt nhỏ này được đốt cháy trong nhiệt độ cao (H2/Ar) rồi nung kết thành chất rắn. Mục đích là hình thành chất rắn đậm đặc có ít bọt.

Độ dẫn điện của Uranium dioxit rất thấp so với Zirconi và điều đó giảm xuống khi nhiệt độ tăng lên. Sự ăn mòn của UO2 trong nước được kiểm soát bởi các quá trình giống nhau điện hóa học cho tới sự ăn mòn của dòng điện trên bề mặt kim loại.

MOX

Hỗn hợp oxit hay nhiên liệu MOX là sự xáo trộn của plutonium và tự nhiên hoặc làm thiếu hụt urani khi vận hành giống nhau để làm giàu uranium cung cấp cho nhiều lò phản ứng hạt nhân. Nhiên liệu MOX là sự thay thế việc làm giàu uranium ít đi cũng sử dụng trong lò phản ứng nước nhẹ vượt trội hơn so với sự hình thành năng lượng hạt nhân.

Một số lo lắng đã được bày tỏ ra rằng sử dụng nhiều lõi MOX sẽ loại bỏ nhiều thách thức mới, mặc dù MOX chính là làm dư số plutonium do sự biến đổi.

Quá trình tái chế có giá trị thương mại của nhiên liệu hạt nhân đã được thực hiện để chế tạo MOX trong nhà máy ở Anh. Tính đến năm 2015, hỗn hợp oxit được sản xuất ở Pháp (xem ở trang web hạt nhân Marcoule) và ở một mức độ thấp hơn ở Nga, Ấn Độ và Nhật Bản. Trung Quốc có kế hoạch phát triển nhanh các lò phản ứng tái sinh và quá trình tái chế.

Các công ty năng lượng hạt nhân trên toàn cầu thông qua một đề xuất ở Hoa Kỳ của chính quyền tổng thống George W. Bush hình thành quan hệ đối tác quốc tế xem nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng để tái chế plutoni điều đó tiện lợi cho nhiên liệu hạt nhân chứ không phải cho vũ khí hạt nhân. Việc tái xử lí nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng không được cấp phép ở Hoa Kỳ do những cân nhắc không phổ biến.

Tất cả các quốc gia khác tái chế vũ khí hạt nhân đã có từ lâu rồi sử dụng nhiên liệu đó để nghiên cứu trong quân đội ngoại trừ Nhật Bản. Thông thường với nhiên liệu thay đổi cứ ba năm một lần, khoảng một nửa số Pu-239 bị đốt cháy trong lò phản ứng, cung cấp khoảng 1/3 tổng năng lượng. Nó hoạt động giống như là U-235 và sự phân hạch giải phóng ra một nguồn năng lượng tương tự. Đốt cháy càng lớn, càng tiêu tốn nhiều lượng plutoni, phần phân hạch của plutonium càng thấp. Thông thường khoảng 1% nhiên liệu sử dụng được thải ra từ lò phản ứng là plutonium và 2/3 trong chúng được phân hạch (50% Pu-239, 15% Pu-241).

Toàn thế giới có khoảng 70 tấn plutonium chứa trong nhiên liệu đã qua sử dụng được loại bỏ khi các lò phản ứng tiếp nhiên liệu mỗi năm.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhiên liệu hạt nhân http://www.friendsofbruce.ca/candubundle.htm http://www.nuclearfaq.ca/brat_fuel.htm http://www.beckman.com/literature/Bioresearch/ar-4... http://linkinghub.elsevier.com/retrieve/pii/S00295... http://www.ijnsweb.com/?type=subscriber&action=art... http://www.nucleartourist.com/areas/bwr-in1.htm http://www.nucleartourist.com/systems/candu-rx.htm http://www.nucleartourist.com/systems/pwrfuel1.htm http://www.nucleartourist.com/type/candu2.htm http://www.nuc.berkeley.edu/thyd/ne161/ncabreza/sa...